Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2011

Tọa thiền





GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM- THIỀN TÔNG VIỆT NAM
THIỀN VIỆN TRÚC LÂM
NGHI THỨC TỌA THIỀN

I. LỄ PHẬT:
            Đại từ, đại bi thương chúng sanh,
            Đại hỉ, đại xả, cứu hàm thức,
            Tướng đẹp sáng ngời dùng trang nghiêm
            Chúng con chí tâm thành đảnh lễ:
Chí tâm đảnh lễ: tất cả chư Phật ba đời tột hư không khắp các giới. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: tất cả chánh pháp ba đời tột hư không khắp các giới. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: tất cả tăng bậc hiền thánh ba đời tột hư không khắp các giới. (1 lạy)
II. TỌA THIỀN:
A. Nhập:
Bồ đoàn đường kính không qui cách nhất định tuỳ vóc dáng mỗi người, miễn sao thích hợp.
1. Kiết già:
Chân trái gác lên đùi phải, chân phải gác lên đùi trái, tay phải để lên tay trái, hai đầu ngón tay cái chạm nhau. Nếu lòng bàn chân trũng, nên lót khăn hoặc gối nhỏ.
Mắt nhắm hay mở tuỳ theo người tỉnh hay thường buồn ngủ. Tầm nhìn vừa phải tuỳ theo người cao thấp.
Trái tay thẳng hai vai.
Chót mũi hướng ngay giữa rún và đầu hai ngón tay cái
Ngồi không quá thẳng cũng không quá dùn.
Chuyển động thân từ mạnh đến nhẹ (3 lần).
Điều hơi thở hít vô bằng mũi thở ra bằng miệng. Hít vô tưởng không khí trong sạch vào khắp châu thân, thở ra tưởng phiền não bệnh tật đều được tiêu trừ, thở mạnh (3 lần). Rồi thở lại bình thường bằng mũi nhè nhẹ, đều đều.
Mặt tươi, bình thản.
Lưỡi để bình thường, không cong.
2. Bán già:
Cách thức cũng như ngồi kiết già, nhưng chỉ gác một chân lên đùi, tùy theo chiều thuận riêng của mỗi người, gác chân trái hay phải lên cũng được, không bắt buộc.
B. An Trụ:
Dần dần trở về tự TÁNH GIÁC.
Nếu mới tập hít vô đếm một, thở ra đếm hai, đếm từ một đến mười, trở lại một,….đến mười,…
Quen dần đếm không lộn, vọng tưởng bớt chút ít, theo dõi hơi thở liên tục rõ ràng, hít vô thở ra đếm một,… đến mười, trở lại từ một đến mười….
Khi vọng tưởng bớt khá, không đếm số nữa. Hít vô thở ra, TÂM DUYÊN THEO HƠI THỞ KHÔNG RỜI.
Khi vọng tưởng thưa dần, lúc đó không chú ý đến hơi thở nữa, chỉ còn BIẾT VỌNG KHÔNG theo cho đến khi khởi liền GIÁC. Dần dần tự hết.
Sau đó là: tâm thế nhất như càng lâu càng sâu và công phu đi, đứng, nằm càng được nhẹ nhàng hơn.
C. Xuất:
Thầm tưởng bài hồi hướng:
            Chúng con hồi tâm về thánh chúng.
            Ân cần đầu cúi lễ từ tôn.
            Thềm thang Thập Địa nguyện sớm lên
            Chơn Tâm Bồ Đề không thối chuyển.
Thở mạnh ba lần, hít vô bằng mũi, thở ra bằng miệng. Hít vô tưởng máu huyết lưu thông khắp châu thân, thở ra tưởng phiền não bệnh tật đều được tiêu trừ.
Chuyển động hai bả vai từ nhẹ đến mạnh (mỗi bên 5 lần).
Cuối, ngước đầu lên xuống (5 lần).
Xoay đầu qua trái, phải (5 lần), rồi cuối ngước (1 lần) cho quân bình.
Co duỗi mười ngón tay (7 lần).
Chuyển thân từ nhẹ đến mạnh (7 lần), xong để hai tay ra đầu gối ấn xuống (3 lần).
Xoa mỗi nơi 20 lần: mặt, lỗ tai, đầu, gáy, cổ trước.
Xoa vai phải dài xuống bàn tay phải, nách trái dài xuống hông trái và ngược lại (mỗi bên 5 lần).
Lưng bàn tay trái xoa sau lưng đồng thời lòng bàn tay phải xoa trước ngực (thượng), giữa ngực và bụng (trung), bụng (hạ) (5 lần).
Xoa hai bên hông đùi, chà dài xuống dọc hai bên, đầu gối (trị thần kinh tọa).
Chà xát hai ngón tay giữa cho nóng rồi xoa vào mắt, đẩy từ ngoài vô hoặc ngược lại (5 lần).
Tay nắm ngón chân kéo xả ra. Xoa xuống lên hai chân cho máu huyết lưu thông, xoa lòng hai bàn chân (không số lượng tuỳ chỗ đau nhiều hay ít).
Vẫn ngồi trên bồ đoàn, duỗi thẳng hai chân, đưa hai tay từ bắp chân thẳng xuống đầu hai bàn chân (3 lần).
Xong, bỏ bồ đoàn ra và xoa bóp thêm cho thật kỹ những chỗ đau nhiều.
Thời gian xả thiền từ 10 đến 15 phút.
III. TỤNG: TÂM KINH-HỒI HƯỚNG-QUI Y
Đứng lên, tụng:
1. Tâm Kinh Trí Tuệ Cứu Kính Rộng Lớn.
Khi Bồ Tát Quán tự tại hành sau Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi sáng thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách.
Này Xá Lợi Phất! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng, hành, thức, cũng lại như thế.
Này Xá Lợi Phất! Tướng “không” của các pháp, không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt. Cho nên trong tướng “không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới; không có vô minh cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết cũng không có hết già chết; không có khổ, tập, diệt đạo, không có trí huệ cũng không có chứng đắc.
Vì không có chỗ được, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng nương Bát Nhã Ba La Mật Đa được đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thường chú, là vô đẳng chú, hay trừ được hết thảy khổ, chân thật không đổi.
Vì vậy nói chú Bát Nhã Ba La Mật Đa, liền nói chú rằng: “Yết Đế, yết Đế, Ba La Yết Đế, Ba La Tăng Yết Đế, Bồ Đề Tát Bà Ha” (3 lần)
2. Hồi Hướng:
            Nguyện đem công đức này,
            Hướng về khắp tất cả,
            Đệ tử và chúng sanh,
            Đều trọn thành Phật đạo.
3. Ba Tự Qui Y:
Tự qui y Phật, nguyện cho chúng sanh, hiểu thấu Đại Đạo, phát tâm Vô Thượng (1 lạy).
Tự Qui y Pháp, nguyện cho chúng sanh, thâm nhập tam tạng, Trí Huệ như biển (1 lạy).
Tự qui y tăng, nguyện cho chúng sanh quản lý đại chúng tất cả không ngại (1 lạy)
Đánh ba tiềng chuông nghi thức chấm dứt.
IV. CÁC TRIỆU CHỨNG KHI NGỒI THIỀN:
1. Trong khi ngồi, nếu thấy chảy nước miếng là hoãn (lơ là), nên chấn chỉnh (tỉnh) lại.
2. Nếu thấy căng đầu, là cấp (gấp) nên thư giãn nhẹ nhàng lại.
3. Đau lưng: do cong quá nên phải thẳng lên.
4. Tức ngực: do thẳng quá nên phải dùn xuống. Hơi thở không thông nên thở dài và nhẹ lại.
5. Đau hông: do ngồi nghiêng nên phải chấn chỉnh (ngay thẳng lại).

Quán Sổ Tức

A. Mở Ðề 
Bất luận trong công việc gì, sự định tĩnh của tâm trí là một yếu tố chính yếu để thành công. Nhất là công việc tu hành sự định tĩnh tâm thần lại càng quan trọng hơn nữa. Người tu hành mà tâm trí luôn luôn tán loạn học trước quên sau, học sau quên trước, tư tưởng thiếu tập trung, thì dù có khổ công tu tập, cũng khó được kết quả khả quan, vì thế trong phần nhiều các tôn giáo, người ta thường có những phút "lắng lòng", tập trung tư tưởng vào bên trong để khám phá nội tâm và soi sáng lẽ đạo. Riêng về Ðạo Phật thì có những phép quán và thiện định. Về thiền đinh., chúng ta sẽ tìm hiểu trong các bài nói về Lục độ ở phần sau tập sách này. Trong bài này và bốn bài nối tiếp sau đây chúng tôi sẽ đề cập đến phép quán. 
Phép quán đầu tiên mà chúng tôi muốn nói đến là Sổ tức quán. Sở dĩ chúng tôi để bài quán Sổ tức này đứng đầu trong năm phép quán, trước tiên, phải biết quán là gì, quán như thế nào, và phải có một tâm trí định tỉnh không tán loạn. Muốn được thế, trước tiên phải tập quán Sổ tức. Khi quán Sổ tức đã thuần phục rồi, thì các thứ quán sau mới dễ có kết quả, nghĩa là mới có thể trừ diệt dần các tâm bệnh: tham, sân, si mạn.
 
B. Chánh Ðề 
I. Ðịnh Nghĩa 
Quán Sổ tức là đếm hơi thở. Quán là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích hay suy nghiệm đến một vấn đề. Sổ tức quán là tập trung tâm trí để hơi thở ra vào của mình, mà mục đích là để đình chỉ tâm tán loạn.
 
II. Vì Sao Phải Ðình Chỉ tâm Tán Loạn  
Tâm trí chúng ta bị muôn việc ở đời chi phối, khi vui khi buồn, khi lo việc này, khi suy nghĩ chuyện khác, khi mừng khi giận, khi thương khi ghét, không bao giờ được định tĩnh. Dù cho ta có ngồi yên một chỗ, khoanh tay lại, tâm trí chúng ta cũng không dừng nghỉ, mà vẫn sống với đời sống lăng xăng rộn ràng của nó. Bao nhiêu hình ảnh phức tạp như một cuốn phim hiện lên trên màn ảnh của trí óc; và mỗi hình ảnh như thế lại mang theo nó một cảm tưởng vui buồn thương ghét, cho nên khi ta ngồi yên, chỉ là để cho thân xác được yên nghỉ, chứ còn tinh thần thì vẫn hoạt động, có nhiềụ khi lại hoạt động nhiều hơn cả lúc làm việc. Hầu hết chúng ta đều khổ tâm, bực tức về sự hoạt động lỗi thời ấy của tâm trí chúng ta: Không muốn nhớ nữa mà vẫn cứ nhớ, không muốn thương nữa mà vẫn cứ thương, không muốn giận nữa mà vẫn cứ giận. Làm chủ thể xác đã là khó, mà làm chủ tinh thần lại càng khó hơn. Nhất là trong thế giới máy móc, phức tạp ngày nay, một thế giới đầy màu sắc rộn ràng, âm thanh chát chúa, hình ảnh kỳ dị một thế giới cuồng loạn trong ấy, trí óc không mạnh mẽ vững vàng thì rất dễ bị rối loạn. Vì thế, theo các bản thống kê của các nhà bác học, số người mắc bệnh điên mỗi ngày mỗi nhiều trong thế giới ngày nay. 
Riêng trong phạm vi nhỏ hẹp, chúng ta cũng nhận thấy có nhiều người học hành chẳng nhớ, gặp việc hay quên, niệm Phật không thành công, tham thiền quán tưởng chẳng kết quả, đều do sự tán loạn của tâm trí mà ra. 
Vậy, muốn học hành mau nhớ, gặp việc không quên, niệm Phật được nhất tâm bất loạn, tham thiền quán tưởng được thành tựu, điều cốt yếu là phải làm sao cho tâm trí được yên định. 
Vì sao tâm trí được yên định, thì dễ đạt được những kết quả như trên? Ta hãy lấy một thí dụ thông thường mà nhiều người đã kinh nghiệm: Khi ta học một bài thuộc lòng hay làm một bài toán vào lúc hoàng hôn hay giữa cảnh náo nhiệt, thì ta thấy vất vả khó khăn vô cùng, vì suốt ngày tâm ta đã mệt mỏi tính toán lăng xăng, phân tán theo trần cảnh. Trái lại, cũng một bài học đó, hay bài toán đó, mà trong buổi khuya thanh vắng, một mình một bóng với ngọn đèn, thì ta lại học bài rất mau thuộc, làm bài rất mau xong, tâm tánh ta hình như thông minh sáng suốt phi thường. Vì sao vậy? Vì buổi khuya mới thức dậy, tâm trí ta yên tịnh, chưa bị trần cảnh chi phối. 
Ta có thể làm một thí dụ thứ hai nữa để vấn đề càng thêm sáng tỏ: Một cây đèn dầu, mặc dù rất lớn ngọn, nhưng khi thắp lên bị gió tứ phía đàn áp phải lung lay, leo lét khi mờ khi tỏ, có nhiều khi gần muốn tắt. Một ngọn đèn như thế chỉ làm hao dầu rất nhiều, chứ không thể soi sáng được gì hết. Nhưng khi chúng ta lấy ống khói chụp lại, gió không đánh bạt được nữa, ngọn đèn đứng thẳng và tỏa ánh sáng khắp gần xa, chiếu phá được một vùng bóng tối trong đêm trường. 
Cũng như ngọn đèn bị gió bạt kia, tâm hành giả bị bát phong xuy động, thất tình lục dục chi phối, lục trần bủa vây làm cho tán loạn, không soi sáng được gì cả. Vậy hành giả, muốn cho tâm được minh mẫn thì phải đừng cho nó tán loạn, nghĩa là phải định tâm, định càng thâm thì tâm càng tỏ, như ngọn đèn càng đứng lặng, thì ánh sáng càng tỏa. Phật dạy: "Tâm có định mới phát sinh trí huệ, có trí huệ mới phá trừ được vô minh để minh tâm kiến tánh". Sở dĩ, các vị Thánh hiền được biết nhiều quá khứ vị lai và có nhiều điều thần diệu, đều do tâm đã định mà phát minh trí huệ sáng suốt, nên mới được như thế. Nên kinh chép: "Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biến", nghĩa là ngăn vọng tâm lại được một chỗ, thì không việc gì chẳng thành tựu. Hành giả muốn cho tâm mình hết tán loạn, được yên định, thì phải tu phép quán Sổ tức, một phép quán rất dễ thật hành và rất kiến hiệu, ai cũng có thể làm được.
 
III. Những Ðiều Cần Biết Trước Khi Quán Sổ Tức  
Trước khi quán Sổ tức cần phải theo đúng những điều sau đây: 
1. Thức ăn: Phải ăn những thức ăn hợp với cơ thể của mình. Nếu ăn đồ nóng nẩy quá, thì than thể sẽ bị bức rức, tâm sanh loạn động. Trái lại, nếu ăn những vật sanh lãnh, không tiêu hóa được , thì thân thể sẽ nặng nề, lừ đừ dễ sanh buồn ngủ. 
2. Ðồ mặc: Phải ăn mặc cho hợp thời tiết. Khi trời nực, mặc đồ mỏng, khi trời lạnh, mặc đồ ấm. Nếu trái lại thân thể mất sự điều hòa, quán lâu có hiệu quả. 
3. Chỗ ở: Phải ở chỗ thanh vắng, thì sự tu quán mới mau được thành công. Nếu ở chỗ ồn ào, đối với người mới tu, không khỏi bị loạn động. 
4. Thời giờ tu: Nên lựa những giờ thanh vắng, như 10 giờ đêm, hay 4 giờ khuya. Nếu ở thành thị thì lựa giờ nào gia đình ngủ hết, chung quanh bớt tiếng động. 
5. Tắm rửa: Thân thể phải thường tắm rửa sạch sẽ, để khỏi ngứa ngáy bức rức trong người. 
6. Cách thức ngồi: Phải ngồi kiết gìa (hai chân tréo xếp lại gọn, thúc vào bắp vế cho sát), hoặc ngồi bán già (chân mặt tréo lên chân trái hay chân trái tréo lên chân mặt, thúc sát vào vế cho gọn gàng). Cách ngồi nầy đầu tiên chưa quen, không sao khỏi bị tê chân (chỉ tê chân khi đang ngồi thôi); qua thời gian hết tê rồi thì đau mỏi cả hai chân. Khi hết đau mỏi, về sau ngồi bao lâu cũng được. 
7. Lưng: Lưng phải ngồi thẳng như vách tường, để cho các khớp xương sống ăn chịu đều nhau, như thế ngồi mới lâu được. Hành giả nên xem tấm vách tường kia, như nó đứng thẳng, các viên gạch ăn chịu đồng đều, nên mới đứng lâu được , nếu hơi nghiêng, cố nhiên nó phải ngã. 
8. Hai tay: Hai cánh tay vòng xuôi xuống, hai Bàn tay để trên hai chân, tay mặc gác lên tay trái, cách thức như Phật ngồi (xem hình đức Trung Tôn ngồi trong mỗi chùa). 
9. Cổ và đầu: Cổ phải thẳng, đầu hơi ngã tới, hai mắt chỉ mở một phần tư (nếu mở mắt lớn thì tâm dễ bị loạn động, còn nhắm lại thì sanh hôn trầm).
 
IV. Phương Pháp Sổ Tức 
Khi đã ngồi yên ổn đúng với như cách thức đã nói trên, hành giả bắt đầu đếm hơi thở. Trước khi đếm, phải thở ra hít vào chín mười hơi thật dài, để cho hơi thở điều hòa và những trược khí, uất kiết, nặng nề trong người đều tuông ra cả, và thay thế vào bằng những thanh khí mát mẻ, trong sạch của thiên nhiên. 
Khi thở ra, hành giả phải tưởng: "những điều phiền não: tham, sân, si, các chất bẩn trược trong người đều bị hơi thở tống ra sạch hết, không còn một mảy may nào". Khi hít vào, hành giả nên tưởng: "Những chất nhẹ nhàng trong sạch sáng suốt của vũ trụ đều theo hời thở thấm vào bủa khắp thân tâm". 
Khi đủ mười hơi rồi, hành giả bắt đầu thở đều đều , không dài không ngắn, không mau không chậm, phải thở nhẹ nhàng như hơi rùa thở. Nếu thở mau và dài thì tâm sanh loạn động, còn thở chậm và ngắn, thì tâm sanh hôn trầm, hoặc bị uất kiết, có khi lại sanh ra giải đãi, rồi tâm dong ruổi duyên theo ngoại cảnh. Nên phải thở cho nhẹ nhàng và đều đặn, không mau không chậm, thì trong người mới được thư thới khỏe khoắn. 
Từ đây mới bắt đầu đếm hơi thở. Phương pháp đếm hơi thở có bốn cách như sau: 
1. Ðếm hơi lẻ. Nghiã là thở hơi ra đếm một, thở hơi vô đếm hai, thở hơi ra đếm ba, thở hơi vô đếm bốn, đếm cho đến mười, không thêm không bớt, rồi bắt đầu đếm từ một cho đến mười lại. Cứ đếm đi đếm lại từ một đến mười, trong khoảng nửa giờ, một giờ hay hai giờ tùy ý. 
2. Ðếm hơi chẵn. Nghĩa là thở vào rồi thở ra đếm một, thở vào rồi thở ra lần nữa đếm hai, cứ tuần tự như thế cho đến mười lại, mãi cho đến khi đi ngủ. 
Phương pháp đếm hơi chẳn này rất thông dụng,, xưa nay người ta vẫn thường dùng, và đếm hơi thở ra dễ hơn, khỏi bịnh tồn khí (chứa hơi lại trong phổi). 
3. Ðếm thuận. Nghĩa là đếm theo hai cách trên, cách nào cũng được , những tuần tự từ một đến mười. 
4. Ðếm nghịch. Nghĩa là cũng dùng hai cách đếm trên, nhưng đếm ngược từ mười đến một. 
Bốn phương pháp này, tùy ý hành giả muốn dùng một phương pháp hay cả bốn phương pháp thay đổi cho nhau cũng được. Miễn sao thuận tiện cho mình và khỏi lộn, là thành công; nghĩa là đối trị được tâm tán loạn.
 
V. Những Ðiều Lầm Lộn Thường Xảy Ra Trong Khi Ðếm Hơi Thở  
Những điều lầm lộn mà hành giả thường mắc phải trong khi mới bắt đầu tu phép Sổ tức là: 
1. Tăng. Nghiã là thở ít mà đếm nhiều, đếm nhảy vọt, như ba liền đếm đến năm, hoặc mới năm liền nhảy lên đếm tám v.v.. 
2. Giảm. Nghiã là thở nhiều mà đếm ít, đếm thụt lùi, như đến bốn rồi lại đếm ba, hay bảy rồi lại đếm sáu v.v.. 
3. Vô ký. Nghĩa là không nhớ rõ mình đã đếm đến số mấy rồi. 
Mỗi khi lầm lộn như thế, phải bắt đầu đếm lại. Phải tập cho đến khi nào không còn mắc phải những lầm lộn nói trên, thì tâm trí mới được yên tịnh.
 
C. Kết Luận: 
Quán Sổ tức là một phương pháp đối trị tâm tán loạn rất hiệu nghiệm và rất thông dụng trong các môn phái của Phật giáo, từ Tiểu Thừa cho đến Ðại Thừa, từ các nước Á Châu đến Tây phương. Nhất là trong các giới Phật tử Nhật bản và Âu châu, pháp quán này rất được thịnh hành. Người tu hành áp dụng pháp quán này thì tâm hết tán loạn niệm Phật mau được "nhất tâm bất loạn" tham thiền quán tưởng mau được thành công. 
Không những kẻ tu hành, người thế gian cũng nên theo pháp quán này, thì thân thể sẽ được khỏe mạnh, tinh thần sẽ được yên tịnh thư thới, trí tuệ lại sáng suốt,, học hành mau nhớ, suy tính, phán đoán công việc làm ăn được mau lẹ và phân minh. 
Nhưng trong mọi công việc gì cũng vậy, muốn thành công, tất phải kiên nhẫn bền chí. Phương pháp dù hay đẹp bao nhiêu mà thiếu chuyên tâm trì chí, thì cũng không đưa đến kết quả khả quan nào cả. Chúng ta hãy xem người lái đò chèo ngược nước kia, nếu chèo được năm bảy mái chèo lại buông tay ngồi nghỉ, thì không những chẳng đi tới được bến bờ đã định, mà còn thụt lùi còn rất xa nữa. Cổ nhân cũng dạy: "Giả sử có một thứ giống gì dễ trồng, mà một ngày nắng, mười ngày lạnh, thì giống đó cũng khó sinh". Vậy hành giả đừng nên thấy phép quán này dễ mà khinh lờn, giãi đãi, tu một ngày nghỉ mười ngày, làm như thế tất nhiên không bao giờ được thành công. 
Ngoài sự chuyên cần, hành giả còn phải theo đúng lời chỉ dẫn trên này, áp dụng đúng phương pháp thì mới được kết quả mỹ mãn. 
Là Phật tử , phải thực hành pháp môn Sổ tức này để cho tâm trí hết tán loạn, trí huệ dễ phát sinh, vô minh chấm dứt và trở lại với bản tâm thanh tịnh của mình. 
Nói một cách thiết thực hơn nữa, nếu muốn tu các pháp quán trong "Ngũ đình tâm quán ", mà chúng tôi sẽ đề cập đến trong những bài sau, trước tiên phải tập quán cho thuần thục phép Sổ tức này. Nếu quán này chưa thành công, nghĩa là tâm đang còn tán loạn, mà đã vội quán những pháp khác, như "Bất tịnh quán , Từ bi quán" v.v...thì chẳng khác chi xây lầu trên cát, thế nào cũng sẽ bị sụp đổ.

Công Năng Của Thiền định 
Theo Bồ Tát hạnh, có thể tu tập Thiền định và đạt đến mười kết quả tốt đẹp sau đây: 
Một là được an trụ trong pháp thức uy nghi. Tu Thiền định phải theo pháp thức mà hành trì, như vậy trải qua một thời gian khá lâu, thì ngũ căn được tịch tịnh, chánh định phát khởi, không cần có sự cố gắng mà vẫn được an trụ trong pháp thức oai nghi. 
Hai là được thực hành cảnh giới từ bi. Khi tu Thiền định, thì giữ được tâm từ bi, thương yêu chúng sinh, muốn cho tất cả được an ổn. 
Ba là không còn phiền não. Nhờ năng lực Thiền định mà các phiền não tham, sân, si, không còn phát sinh nữa. 
Bốn là gìn giữ được các giác quan. Không cho sắc, thanh, hương, vị, xúc lay động. 
Năm là vui vẻ lạc thú. Xem Thiền định là một món ăn ngon lành hơn tất cả các món ăn khác trong thế gian. 
Sáu là xa lìa được ái dục. Một khi tâm niệm đã lắng yên, ái dục không còn phát sinh và làm nhiễm trước được nữa. 
Bảy là chứng được chân không ,nhưng không bao giờ bị rơi vào chỗ chấp đoạn diệt hư vô. 
Tám là cởi mở được tất cả những dây trói buộc sự giải thoát. 
Chín là khai phát được trí huệ vô lượng và an trú trong cảnh giới của chư Phật. 
Mười là đạt đến sự giải thoát thành thục, đến chỗ mà tất cả hoặc nghiệp không còn nhiễu lại được nữa.
 
Kết Luận: 
Chúng ta có thể tóm tắt thành quả tốt đẹp của Thiền định như sau: 
Ngũ căn được tự tại, phiền não được dứt trừ ,từ bi được mở rộng, trí huệ được phát chiếu, cảnh giới giải thoát được phô bày ra trước mắt. Một pháp môn có công năng quí báu, có diệu dụng phi thường như thế, làm sao chúng ta có thể bỏ qua được? 
Mong rằng vì lợi ích thiết thực nói trên, quí vị Phật tử hãy gắng công tu tập pháp môn Thiền định này cho chíng có kết quả.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét